Phòng Trừ Sâu Bệnh Hại Lúa

MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP TRÊN CÂY LÚA VÀ CÁCH PHÒNG TRỪ BỆNH

     

 

 

 

 

 

 

 

 

CÁC LOẠI BÊNH TRÊN CÂY LÚA

  1. BỆNH DO NẤM

 

BỆNH Hiện tượng Nguyên nhân Gđ gây hại

Chủ yếu

Phòng trừ Hình ảnh
ĐẠO ÔN

Trên lá

 

Lúc đầu vết bệnh chỉ nhỏ như đầu mũi kim, màu xám xanh giống như bị nước sôi, sau chuyển sang màu nâu, rồi lan rộng dần ra thành hình thoi, xung quanh màu nâu đậm, giữa màu xám trắng. Nếu nặng, nhiều vết liên kết lại với nhau tạo thành mảng lớn, có thể làm lá bị khô cháy, cây lúa lụi tàn, gây thất thu năng suất nghiêm trọng. Đối với bệnh đạo ôn thì nhiệt độ không khí 20 – 30 C và ẩm độ trên 92% thích hợp cho bào tử nấm hình thành và nảy mầm. Nhiệt độ ngày đêm chênh lệch, trời âm u, có mưa phùn, sương mù liên tục trong nhiều ngày là điều kiện rất thuận lợi cho bệnh đạo ôn lá lây lan, phát triển và gây hại nặng trên cây lúa.  Bệnh hại chủ yếu ở giai đoạn mạ và đẻ nhánh

 

Để phòng trừ hiệu quả bệnh đạo ôn hiệu quả bà con cần lưu ý: Dọn sạch tàn dư rơm rạ và cỏ dại mang mầm bệnh trên đồng ruộng; gieo cấy các giống kháng hoặc chống chịu với bệnh đạo ôn trong vùng thường xảy ra bệnh và mức gây hại cao. Mật độ gieo sạ vừa phải. Bón phân với tỉ lệ cân đối giữa phân chuồng và N:P:K, bón tập trung nặng đầu, nhẹ cuối. Khi bị bệnh đạo ôn không để ruộng khô hạn, không bón phân đạm, không phun các loại phân bón lá và thuốc kích thích sinh trưởng.

– Ngưng bón đạm, không để ruộng bị khô nước.

– Phun thuốc có hoạt chất iso prothiolane, fenoxanil, tricylazol, propiconazole như: Fuji-one 40EC, Beam 20WP, Filia…

– Tuyệt đối không pha thêm những loại phân bón lá có tỷ lệ đạm cao.

– Ruộng sắp trổ đến trổ lác đác, phun phòng bệnh tấn công trên cổ bông, bông và hạt lúa, và phun tiếp lần hai sau đó khoảng 10-15 ngày (phun vào buổi sáng sớm hoặc chiều mát để không ảnh hưởng đến thụ phấn của bông lúa).

 

Trên cổ bông, thân Ẩm cao: vết bệnh có lớp nấm mốc mầu xám xanh. Trời khô vết bệnh sẽ khô tóp lại. Lúa trổ đến lúa chín
Trên hạt Đốm tròn, viền nâu, tâm mầu xám trắng, 1-2 mm.
KHÔ VẰN

Do nấm

–  Bệnh gây hại chủ yếu ở bẹ lá, phiến lá và cổ bông. Các bẹ lá sát mặt nước hoặc bẹ lá già ở dưới gốc thường là nơi phát sinh bệnh đầu tiên.

– Vết bệnh ở bẹ lá lúc đầu là vết đốm hình bầu dục màu lục tối hoặc xám nhạt, sau lan rộng ra thành dạng vết vằn da hổ, dạng đám mây. Khi bệnh nặng, cả bẹ và phần lá phía trên bị chết

– Vết bệnh ở lá tương tự như ở bẹ lá, thường vết bệnh lan rộng ra rất nhanh chiếm hết cả bề rồng phiến lá tạo ra từng mảng vân mây hoặc dạng vết vằn da hổ. Các lá già ở dưới hoặc lá sát mặt nước là nơi bệnh phát sinh trước sau đó lan lên các lá ở trên.

– Vết bệnh ở cổ bông thường là vết kéo dài bao quanh cổ bông, hai đầu vết bệnh có màu xám loang ra, phần giữa vết bệnh màu lục sẫm co tóp lại.

– Trên vết bệnh ở các vị trí gây hại đều xuất hiện hạch nấm màu nâu, hình tròn dẹt hoặc hình bầu dục nằm rải rác hoặc thành từng đám nhỏ trên vết bệnh. Hạch nấm rất dễ dàng rơi ra khỏi vết bệnh và nổi trên mặt nước ruộng.

– Bệnh lúc đầu lây ngang, sau trổ lây dọc.

Nhiệt độ và ẩm độ cao, biên độ nhiệt độ ngày đêm cao, mật độ gieo sạ dày.

Bón nhiều phân là những điều kiện làm bệnh phát triển nhanh

Sự phát triển của bệnh khô vằn ở thời kỳ đầu từ cây mạ đến đẻ nhánh có mức độ bệnh ít. Giai đoạn đòng trổ đến chín  là thời kỳ nhiễm bệnh nặng  Phòng trừ bệnh khô vằn chủ yếu là áp dụng các biện pháp tiêu diệt nguồn bệnh ở trong đất và quản lý kỹ thuật trồng trọt thâm canh thích hợp. Tiêu diệt nguồn bệnh ở trong đất tiến hành ngay sau khi thu hoạch, cày sâu để vùi hạch nấm, phối hợp với các biện pháp gieo cấy đúng thời vụ, đảm bảo mật độ hợp lý, bón phân đúng tỷ lệ tránh bón phân tập trung đạm đón đòng, có thể phối hợp thêm kali hoặc tro bếp để tăng cường tính chống chịu của cây. Hệ thống tưới tiêu chủ động và không để mức nước quá cao trong trường hợp bệnh đang lây lan mạnh. Ngoài ra có thể dùng một số loại thuốc hoá học như Tilt Super 250 ND, Amitar Top 325SC, Anvil 5 SC, Validacin (Validanmycin A), để phối hợp với các biện pháp canh tác kỹ thuật phòng trừ bệnh. Sử dụng thuốc hoá học phòng trừ bệnh chỉ đưa lại hiệu quả khi bệnh mới phát sinh ở những bẹ lá già và thuốc hoá học phải được phun tiếp xúc với tầng là dưới của cây kết hợp với rút cạn nước trên đồng ruộng.

Biện pháp sinh học như sử dụng chế phẩm nấm Trichoderma để ức chế sự phát triển sợi nấm và hạch nấm khô vằn cũng có tác dụng phòng trừ bệnh, đảm bảo an toàn môi trường.

 

 

ĐỐM NÂU Vết bệnh trên lá ban đầu là những chấm nhỏ màu nâu nhạt, sau đó phát triển thành các vết bệnh màu nâu tròn, hình bầu dục trên lá. Kích thước vết bệnh dài 1-4 mm ở những giống nhiễm vừa, 5-14 mm ở những giống nhiễm nặng.ruộng bị bệnh nặng thường có màu đỏ rực như màu lửa.

Bệnh gây hại trên hạt làm cho hạt lúa có các vết màu nâu hay bị biến màu đen.

 

Bệnh do nấm  Bipolaris Oryzae gây ra

-Điều kiện phát sinh phát triển bệnh: Bệnh đốm nâu phát triển ở vùng đất nghèo chất dinh dưỡng, những vùng đất quá úng hay khô hạn.  Bệnh phát sinh phát triển thích hợp trong điều kiện nhiệt độ cao, ẩm độ thấp-Ngập liên tục

– Đất khô

 

 

Lúa bắt đầu trổ đến khi chín. –  Xử dụng các giống ít nhiễm bệnh trên những vùng thường xuyên bị nhiễm bệnh này.

Đảm bảo xuống giống, gieo cây đúng thời vụ; cung cấp đủ nước cho vùng khô hạn; tăng cường bón sớm vôi và các loại phân hữu cơ hoai mục.

Xử lý hạt giống trước khi gieo. Sử dụng Carban 50SC ngâm giống theo liều lượng hướng dẫn trên bao bì trong 16-24 giờ, sau đó rửa bằng nước sạch và ủ bình thường.

– Phun TiltSuper300EC, Amitar Top 325SC, trước khi lúa trỗ.

 

 

 

 

 

 

 

BỆNH TIÊM HẠCH – Vết bệnh xuất hiện ở bẹ lá dưới gốc rồi lan lên lá phía trên.

– Vết bệnh tròn, bầu dục, lan dài ra, màu nâu đậm- đen, ăn sâu vào trong phá hại nhu mô bẹ lá và ống thân (rơm rạ) làm bộ phận bị bệnh thối nhũn đen, lá bị vàng úa, khô chết dần.

– Bên trong ống rạ hình thành nhiều hạch nấm nhỏ li ti như hạt cát, màu đen, rắn. Chỗ bị bệnh ở sát gần mặt nước bị phân giải thành những chất nhày,  thối mủn đen, có mùi  hôi,  khi đó toàn thân cây bị lụi xuống, rễ thối đen

– Bệnh Do nấm Selerotium oryzae Cott gây ra.

–  Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện ruộng ngập nước, yếm khí, lúa cấy quá dày,bón thừa đạm, thiếu ánh sáng

 

 

 

 

 

 

 

– Phun thuốc kết hợp với thay đổi mực nước trong ruộng và vơ bỏ các lá già khô chết.

– Tháo cạn nước sau khi đẻ nhánh bệnh giảm so với nước ngập.

 

 

 

 

 

 

 

 

LÚA VON

-Cây cao vọt (một số trường hợp cây lùn đi so với bình thường), mảnh khảnh,lá màu xanh nhạt rồi vàng gạch cua, cứng giòn và chết nhanh chóng.

–  Phần lớn cây bị bệnh sẽ chết do thối gốc. Nếu cây lúa bị bệnh sống đến giai đoạn làm đòng, trổ bông thì lóng cây vươn dài, rễ bất định mọc ở các đốt phía dưới gần gốc lúa; Nếu thời tiết ẩm ướt có thể quan sát thấy lớp nấm màu phấn trắng hoặc phớt hồng bao quanh trên vỏ hạt, nếu khô trên đốt thân và vỏ hạt có nhiều chấm nhỏ li ti màu xanh đen, đó chính là quả thể nấm. Cây bị bệnh sống được, có thể trỗ bông nhưng hạt bị lép hoặc lửng. Các bộ phận ở phía dưới mặt đất của cây (rễ, gốc thân) dễ bị nhiễm bệnh hơn các bộ phận ở phía trên mặt đất (bẹ lá, đốt thân…).

 

– Bệnh do nấm Fusarium moniliform gây ra.

Phát sinh trong thời tiết ấm áp, ẩm độ cao và ánh sáng yếu.

Phát triển khi bón đạm quá nhiều

Mạ đến đón đòng – Nhổ bỏ cây bị bệnh, đem ra khỏi ruộng tiêu hủy.

– Sạ thưa, bón phân cân đối.

– Bệnh chủ yếu lây qua hạt giống và lưu tồn trong đất. Chính vì thế, 2 biện pháp được đề xuất trong phòng trừ là xử lý hạt giống và đất trước khi gieo sạ.

 

HOA CÚC Bệnh hoa cúc do nấm Ustilaginoidea virens (Cooke) Taka gây nên. Triệu chứng bệnh thể hiện rõ khi hạt bắt đầu chín. Hạt bị nấm xâm nhập phát triển tạo thành một khối bào tử hình tròn phủ một lớp như nhung mịn, màu vàng trên hạt lúa. Sau đó, khối bào tử chuyển dần thành màu xanh đen nhạt phía bên ngoài, còn bên trong vẫn có màu da cam. Thời tiết nắng nóng, mưa nhiều, ẩm độ cao, bón đạm nhiều nặng về cuối vụ, cây lúa phát triển thân lá tốt… là những điều kiện thuận lợi cho bệnh phát sinh phát triển. Bệnh gây hại trên nhiều giống lúa, nhưng có xu thế gây hại nặng trên các giống lúa lai Bệnh phát sinh gây hại từ khi lúa phơi màu cho tới khi chín. Triệu chứng bệnh thể hiện rõ khi hạt bắt đầu chín. ● Tuyệt đối không sử dụng hạt giống ở những ruộng bị bệnh. Trước khi ngâm ủ giống, xử lý hạt giống bằng nước có nhiệt độ 54oC trong vòng 15 phút, sau đó ngâm ủ bình thường.

● Vệ sinh đồng ruộng, phơi ải, ngâm dầm để tiêu diệt bào từ và hạch nấm. Không cấy, sạ lúa quá dầy. Chăm sóc hợp lý cho quần thể lúa khoẻ để tăng khả năng chống bệnh. Bón phân cân đối NPK và bón theo tiêu chí “nặng đầu, nhẹ cuối”.

● Có thể phun thuốc trừ nấm vài ngày trước và sau khi lúa trỗ bằng các loại thuốc Diboxylin 2SL, Rovral 50WP, Tilral 500WP và một số thuốc trừ bệnh nhóm gốc đồng như Bord Bordeaux, Copper Zine……

 

BỆNH DO VI KHUẨN

BỆNH Hiện tượng Nguyên nhân Gđ gây hại Phòng trừ Hình ảnh
BẠC LÁ – Vết bệnh bắt đầu giống như những sọc thấm nước ở rìa lá, có màu vàng đến màu trắng. Vết bệnh có thể bắt đầu ở một hoặc cả hai bên mép lá, hoặc bất kỳ điểm nào trên lá, sau đó lan ra phủ toàn bộ lá. Trên giống nhiễm, vết bệnh có thể lan tới tận bẹ lá

– Cháy dọc mép lá từ đầu chóp lá cháy xuống.

– Bệnh lan theo chiều gió.

– Bệnh nặng: lá lúa cháy đặc biệt lá đòng cháy

–  Bệnh bạc lá do vi khuẩn Xanthomonas Oryzae gây lên.

– Bệnh phát triển trong điều kiện độ ẩm cao 85-90%, gặp mưa dông nhiều

– Đạm nhiều, muộn, không cân đối N-P-K

Bệnh thường phát triển mạnh từ giai đoạn chuẩn bị trổ bông đến khi thu hoạch

 – Khi ruộng lúa có triệu chứng bệnh dừng việc sử dụng phân đạm, phun phân bón lá và chất kích thích sinh trưởng, luôn giữ đủ nước trong ruộng.

– Cấy với mật độ hợp lý, sử dụng các giống lúa có khả năng chống chịu tốt.

– Phun phòng ngay khi có đợt mưa dông lớn: Aliette 80WP.

– Khi bệnh mới xuất hiện thì rút nước ra và tiến hành rải vôi với liều lượng 10 – 20kg/1.000m2.

LEM LÉP HẠT –                   Lem lép hạt là thuật ngữ chung để chỉ triệu chứng hạt lúa bị lép, lửng không cho năng suất. Biểu hiện 3 dạng là lép trắng, lép xanh và lép đen.

 

– Nhiệt độ thấp – ẩm độ cao,  lượng mưa lớn và số ngày mưa nhiều.

 

 

 

Trổ bông đến chín sữa – Phun Titl super hai lần vào thời kỳ lúa bắt đầu trổ và trổ xong

 

 

 

 

  1. PHÂN BIỆT CÁC BỆNH VÀNG LÁ
Do nấm

Bắt đầu giữa lá lúa, lan ngược đỉnh lá lúa, sọc vàng nhỏ dần khi hướng lên chóp lá.

Tilt Super 300EC,

Amistar Top 325SC,

 

 

 

 

Do vi khuẩn

Phòng bằng Tilt Super 300EC hoặc Nevo 330EC

 

Ngộ độc hữu cơ/

Ngộ độc phèn

Cây lúa bị vàng và lùn.Nhổ rửa sạch rễ kiểm tra.

– Rễ đen (ngộ độc hữu cơ),

– Rễ đỏ vàng (ngộ độc phèn)

– Kèm theo rễ bị thối, ít hoặc không có rễ trắng (rễ mới),

– Cây không hút đủ nước và dinh dưỡng gây nên hiện tượng vàng và lùn xuống.

– Ngừng bón đạm,

– Thay nước nhiều lần

– Bón vôi 40 kg/sào+để ruộng khô nứt chân chim sau đó cho nước vào ruộng.

– Phun siêu lân.

Sau 1 tuần bón thêm 20kg/sào Super lân.

 

 

Vàng lùn, lùn xoắn lá:

Triệu chứng lúa vàng lùn: lá lúa từ màu xanh nhạt chuyển dần sang màu vàng nhạt, vàng da cam rồi vàng khô.

Triệu chứng lúa cỏ: bụi lúa lùn, cho ra nhiều chồi mọc thẳng, có dạng giống như bụi cỏ.

Do vius

Rầy nâu là môi giới truyền bệnh.

  • BỆNH DO SÂU, MUỖI, RẦY
BỆNH Hiện tượng, Gđ gây hại Phòng trừ Hình ảnh
SÂU NĂN (MUỐI HÀNH) Bẹ lúa phồng to, bên trong rỗng, trắng nhạt, đầu ống bịt kín

Ống hành xuất hiện khoảng 01 tuần sau khi muỗi xâm nhập.

Triệu chứng để nhận diện cây lúa bị muỗi hành gây hại, cây lúa bị lùn, đâm rất nhiều chồi, lá lúa xanh thẳm ngắn, dựng đứng và có nhiều cọng lúa giống cọng hành nằm bên trong đó.

Bệnh thường xảy ra ở giai đoạn mạ đến cuối đẻ nhánh, trước khi có đòng. – Tháo nước phơi ruộng để hạn chế lây lan

– Thường xuyên thăm đồng, khi phát hiện thành trùng và ống hành mới xuất hiện cần phun thuốc trừ thành trùng và ấu trùng vừa mới nở vào giai đoạn lúa 20-25 ngày tuổi bằng các thuốc sau:

  • Permecide 50EC
  • Hoặc hỗn hợp Permecide 50EC + Carbosan 25EC
  • Có thể rãi thuốc trừ sâu dạng hạt (regent hay diazan, có tính lưu dẫn để phòng trừ.

-Khi rải thuốc hạt, cần duy trì mực nước 3 – 5 cm, trong 3 – 5 ngày.

BỌ TRĨ – Bọ trĩ hay còn gọi là bù lạch xuất hiện nhiều khi ruộng khô, gây hại làm cho đầu lá lúa quắn lại và biến màu vàng

Bọ trĩ gây hại làm lá bị cuốn lại ở chóp, lá héo, tóp lại và khô vàng; đặc biệt nặng ở các ruộng khô nước.

 Bọ trĩ xuất hiện khi cây lúa mới mọc đến đẻ nhánh.  Vệ sinh đồng ruộng, dọn sạch cỏ ở các bờ ruộng hoặc sơn bờ ruộng. Cấy, sạ lúa với mật độ vừa phải, không quá dày, giữ nước không để ruộng khô.

Dùng các loại thuốc thảo mộc để bảo vệ các thiên địch, trong trường hợp mật độ cao dùng thuốc hoá học vị độc, lưu dẫn, tiếp xúc như: Regent 800WG, Hopsan 75ND, Polytrin 440ND, Selecron 50EC, Actara 25WP, Satrungdan, 666… phun khi bọ trĩ phát sinh rộ…

 

SÂU CUỐN LÁ NHỎ – Sâu non nhả tơ cuốn dọc lá thành bao thẳng đứng và nằm trong đó ăn phần chất xanh trên mặt lá, để lại lớp màng trắng làm giảm diện tích quang hợp và mất diệp lục tố gây tổn thất cho năng suất và chất lượng nông sản.  Sâu cuốn lá nhỏ tập trung hại nặng vào 2 thời kỳ là: lúa đẻ nhánh rộ và làm đòng – trổ. -Vệ sinh đồng ruộng, làm sạch cỏ dại,
– Điều chỉnh mật độ cấy phù hợp.
– Bón phân cân đối, hợp lý, đặc biệt bón phân đạm vừa phải, Sử dụng các loại thuốc như: Satrungdan, 666EC, regent,… phun theo nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng liều lượng, đúng thời gian, đúng phương pháp).
SÂU ĐỤC THÂN  – Thời kỳ mạ hoặc đẻ nhánh, sâu đục qua bẹ phía ngoài vào đến nõn giữa phá hại làm cho dảnh lúa bị héo.
– Thời kỳ sắp trỗ hoặc mới trỗ, sâu  đục qua lá bao của  đòng chui vào giữa rồi bò xuống đục ăn điểm sinh trưởng, cắt đứt các mạch dẫn dinh dưỡng làm cho bông lép trắng.
Tất cả các giai đoạn của lúa – Cày lật gốc rạ kèm theo ngâm nước, làm dầm kịp thời (đặc biệt đối với lúa vụ mùa sau khi gặt).
– Vệ sinh đồng ruộng sạch sẽ.
– Bón phân cân đối giữa các loại phân theo quy trình kỹ thuật bón được quy định cho từng vụ, từng chân đất, từng giống lúa. Hạn chế sử dụng phân đạm quá liều lượng và bón không đúng cách tạo nên tình trạng lúa lốp hoặc đẻ lai rai, sâu có thể phá hoại. Nếu đều kiện tưới tiêu chủ động có thể điều chỉnh mực nước ở ruộng để diệt sâu.
– Phát huy tác dụng của nhóm thiên địch, nhất là ong ký sinh trứng.
– Dùng bẫy đèn bắt bướm khi bướm rộ.
– Thường xuyên theo dõi mật độ sâu trên đồng ruộng. Chỉ phun thuốc khi đến quá ngưỡng phòng trừ:  giai đoạn đẻ nhánh: 0,5 ổ trứng/m2; đòng già –  bắt đầu trỗ: 0,3 – 0,5 ổ trứng/m2.
– Phun thuốc nên tiến hành khi lúa trỗ 3 – 5% hoặc phun lần 2 vào lúc lúa hé đòng và sau đó 5 ngày cho hiệu quả cao nhất. Các loại thuốc sử dụng để phòng trừ sâu đục thân hiện nay: Tasodant 600EC, BOP 600 EC, Prevathon 5SC, Wavotox 600EC, Winter 635EC, Virtako 40WG, Vitashield Gold 600EC,……
RẦY NÂU – Rầy trưởng thành và rầy non dùng miệng chích vào thân cây lúa để hút dịch cây. Bị hại nhẹ, các lá dưới có thể bị héo, bị hại nặng gây hiện tượng ‘cháy rầy’, cả ruộng bị khô héo. Hiện tượng cháy rầy đầu tiên mang tính cục bộ một vài mét vuông, nhưng nếu gặp điều kiện thuận lợi ‘cháy rầy’ lan tỏa rất nhanh ra một đến vài ha hoặc cả khu đồng trong 1 – 2 tuần. Tất cả các giai đoạn phát triển của cây lúa. Sử sụng một số loại thuốc có hoạt chất như:

– Hoạt chất Buprofezin: Các tên thương mại là thuốc Butyl 10WP, Butyl 400SC, Encofezin 10WP… thường sử dụng cho giai đoạn rầy non mới nở, rầy tuổi nhỏ.

-Hoạt chất Thiamethoxam: Thuộc nhóm Neonicotinoid  Các tên thương mại: Actara 25WDG, Amira 25WDG, Vithoxam 350SC…

 

 

 

Ghi chú: Khi lúa trổ lác đác (trổ 3-5%) Tiến hành phun tilt super hoặc Amitartop để phòng bệnh lem lép hạt giúp lúa trổ nhanh đều.